TÂM THẦN PHÂN LIỆT - HOÀ NHẬP HAY CÁCH LY

Ngày đăng: 02/11/2017

Tâm thần phân liệt là bệnh loạn thần nặng tiến triển một cách từ từ và có khuynh hướng trở nên mạn tính. Nguyên nhân gây nên bệnh lý này chưa được biết rõ, chúng làm cho người bệnh tách dần ra khỏi với cuộc sống ở chung quanh để thu hẹp dần vào thế giới bên trong; từ đó tình cảm trở nên khô lạnh, khả năng học tập, làm việc và lao động ngày một giảm sút; có những ý nghĩ và hành vi khá kỳ dị, khó hiểu.

I. TÂM THẦN PHÂN LIỆT LÀ BỆNH GÌ?

Tâm thần phân liệt - Schizophrenia được dùng lần đầu vào năm 1911 bởi Eugen Bleuer, bác sĩ tâm thần Thụy Sĩ. Thuật ngữ này dịch ra có nghĩa là sự phân tách (Schizo) của các kết nối trong tâm trí (Phrenia) – cái mà Bleuer tin là đặc điểm của bệnh. Tuy nhiên, đây cũng là cái khiến những người sau này lầm tưởng bệnh Đa Nhân Cách cũng là một dạng tâm thần phân liệt (trong DSM 3) vì nó cũng là một dạng tách rời tâm trí, nhưng tách rời về nhận thức, trong khi hai bệnh này có rất ít điểm chung với nhau. Khi DSM 4 ra đời, bệnh Đa Nhân Cách mới chính thức có danh mục riêng của mình.

Bác sĩ tâm thần thế kỉ trước - đặc trưng bởi ảnh nhìn gê rợn và vẻ ngoài kì dị

Bác sĩ tâm thần thế kỉ trước - đặc trưng bởi ánh nhìn gê rợn và phong cách kì dị

Theo các nhà khoa học, bệnh tâm thần phân liệt chiếm tỷ lệ khoảng 0,3-1% dân số ở các quốc gia và thường xảy ra ở những người trẻ từ 18-40 tuổi. Tỷ lệ này không phụ thuộc vào các yếu tố chủng tộc, môi trường, địa lý hay thời gian.

Tâm thần phân liệt là một dạng hành vi bất thường hạng nặng mà chúng ta thường hay biết và gọi bằng cái tên thông dụng hơn, “bệnh điên”. Người mắc tâm thần phân liệt có thể có nhiều triệu chứng loạn tinh thần dưới các dạng khác nhau và bị mất nhận thức với hiện tại. Họ có thể nghe thấy giọng nói vô hình nào đó mà vốn dĩ nó không có thật, nói năng khó hiểu, hoặc chẳng có logic tý nào. Hành vi của họ thường dựa trên những niềm tin hoang tưởng không thật. Ví dụ như người bệnh có thể tin rằng một con tàu từ hành tinh khác dùng sóng xâm nhập vào trí óc và điều khiển hành vi của anh ta.

Những triệu chứng đặc trưng của bệnh tâm thần phân liệt liên quan đến việc mất khả năng vận hành tổ hợp của nhận thức và cảm xúc, bao gồm nhận biết, suy luận, ngôn ngữ, giao tiếp, điều khiển hành vi, sự lưu loát, kết quả từ những suy nghĩ, năng lực nói, ý muốn và dục vọng. Và vì đây là một điểm quan trọng nên tôi muốn nhắc lại một lần nữa, để bị coi là mắc chứng tâm thần phân liệt, bệnh nhân phải có những triệu chứng của tổ hợp mà tôi vừa nói đến, chứ không phải là một trong số đó, không phải chỉ đơn lẻ một dấu hiệu mà là một tập hợp. Việc chuẩn đoán bệnh lý thường bao gồm nhận biết nhóm dấu hiệu, và triệu chứng liên quan đến mất khả năng lý giải và hoạt động thường ngày.

Các triệu chứng của tâm thần phân liệt được chia làm ba phương diện: Dương tính (Positive symptoms), Âm tính (Negative symptoms) và rối loạn tổ chức. Thuật ngữ triệu chứng dương tính  không phải chỉ những triệu chứng này có lợi hoặc có khả năng thích nghi với bệnh nhân. Ngược lại, những triệu chứng này có đặc điểm là sự hiện diện của  phản ứng khác thường (ví dụ như nghe những giọng nói không có thật – huyễn thính). Còn triệu chứng âm tính là chỉ về sự khuyết thiếu phản ứng đặc thù (ví dụ như cảm xúc, ngôn ngữ, động lực) mà đáng ra họ nên có.

     1.Triệu chứng Dương tính (Positive symptoms)

Các giác quan cung cấp cho chúng ta những thông tin cơ bản nhưng cực kỳ quan trọng trong việc xác định chúng ta là ai, chúng ta đang làm cái gì, hay người khác đang nghĩ gì về chúng ta. Nhiều người mắc bệnh tâm thần phân liệt trải nghiệm sự thay đổi phức tạp hoặc đáng sợ về nhận thức. Một trong những triệu chứng phổ biến nhất và dễ thấy nhất chính là ảo giác, hoặc trải nghiệm của giác quan không đến từ kích thích thật sự. Mặc dù ảo giác có thể xảy ra với bất kỳ giác quan nào, nhưng thông thường, người mắc tâm thần phân liệt trải nghiệm nó dưới dạng huyễn thính – nghe thấy giọng nói không có thật. Nhiều bệnh nhân nghe thấy giọng nói bên tai nhận xét về hành vi của họ hay ra lệnh cho họ. Người khác thì nghe thấy nhiều giọng nói đang cãi lộn với nhau.

Tuy nhiên, ảo giác phải được phân biệt với lỗi nhận thức xảy ra trong giây lát mà nhiều người mắc phải. Bạn có từng đi trên đường và dường như nghe thấy tiếng ai đó gọi bạn, và khi bạn quay lại thì không có ai cả? Chắc hẳn bạn sẽ tự nhủ với mình, “Là do mình tưởng tượng ra thôi”. Nhưng ảo giác thì trái ngược lại, nó tấn công vào tâm trí bệnh nhân rất thật, khiến cho thực sự trải nghiệm, thực sự thấy được dù rằng thực tế thì không.

Hoang tưởng:

Nhiều bệnh nhân tâm thần phân liệt mắc chứng hoang tưởng, hoặc có những niềm tin đặc thù kỳ quái dù cho nó có lố bịch thế nào đi chăng nữa. Trong những trường hợp tệ nhất, bệnh nhân cố hết sức và khăng khăng bảo vệ niềm tin ảo tưởng của mình mặc cho những bằng chứng trái ngược hiện ra ngay trước mắt. Lo lắng là một đặc tính khác của ảo tưởng. Trong chu kỳ loạn tinh thần cấp tính,  người bệnh không thể nào ngưng suy nghĩ về những niềm tin không thật đó. Và cuối cùng, bệnh nhân mắc chứng hoang tưởng có thể không quan tâm hoặc suy nghĩ về những phương diện mà người khác đưa ra về niềm tin của họ.

Mặc dù hoang tưởng có nhiều loại nhưng đa số thì nó thuộc về dạng cá nhân. Những niềm tin này không được chia sẻ với người thân trong gia đình hoặc cộng đồng. Những hoang tuởng thông thường mà bệnh nhân có bao gồm suy nghĩ được đưa vào trong não họ, người khác có thể đọc được suy nghĩ của họ hay bệnh nhân bị điều khiển bởi sức mạnh siêu nhiên huyền bí nào đấy. Những niềm tin này là những mảnh rời rạc và không gắn kết tạo thành một hệ thống hoàn chỉnh xuyên suốt nhận thức, không được bệnh nhân diễn tả thường xuyên. Các triệu chứng này mạnh mẽ, cường điệu, đôi lúc nguy hiểm nhưng có thể điều trị được.

     2. Triệu chứng âm tính 

Triệu chứng tiêu cực là sự khuyết thiếu những phản ứng đặc thù về cảm xúc, ngôn ngữ hay động lực. Và bởi vì thế, ban đầu nó thường rất khó thấy và khó phát hiện hơn triệu chứng tích cực. Nó cũng thường ổn định qua thời gian hơn là triệu chứng tích cực vì triệu chứng tích cực biến đổi nghiêm trọng khi bệnh nhân ở trong và ở ngoài chu kỳ loạn tinh thần.

Một trong những triệu chứng điển hình của dạng tiêu cực chính là người bệnh không thể hiện bất kỳ cảm xúc nào, được gọi là “Diễn đạt cảm xúc bị giảm thiểu” (Diminished emotional experssion) hoặc “hiệu ứng cảm xúc cùn mòn” (Blunted affect). Bệnh nhân với chứng này thường không thể hiện bất kỳ dấu hiện cảm xúc hay suy nghĩ. Họ không vui cũng chẳng buồn, và có vẻ thờ ơ với môi trường chung quanh. Gương mặt họ vô cảm và lãnh đạm. Giọng nói không có nhịp điệu lên xuống – cái thể hiện cảm xúc của người nói. Những tình huống sự kiện diễn ra xung quanh chẳng có nghĩa gì với họ cả. Họ có thể hoàn toàn không quan tâm đến bản thân  và những người xung quanh.

Một dạng khác của sự thiếu hụt cảm xúc chính là không thể cảm nhận được khoái lạc. Trong khi sự khuyết thiếu cảm xúc là chỉ về sự thiếu hụt phản ứng bề ngoài, còn không thể cảm nhận được khoái lại là kiểu thiếu hụt những cảm giác tích cực. Người mắc triệu chứng này không hề cảm thấy hứng thú với bất kỳ hoạt động cơ thể và mối quan hệ xã hội nào. Họ không tìm được niềm vui trong đó. Đồng thời, họ cũng có thể đánh mất đi vị giác và xúc giác của mình.

Nhiều người mắc tâm thần phân liệt trở nên cách ly với xã hội. Trong nhiều trường hợp, sự cô lập này phát triển trước khi các triệu chứng phát tác. Nó vừa là triệu chứng cũng vừa là chiến lược mà nhiều người bệnh dùng để đối phó với những triệu chứng khác của họ. Ví dụ như họ có thể hạn chế giao tiếp với người khác để giảm bớt mức độ kích thích có thể khiến cho sự rối loạn tri giác và nhận thức của họ trở nên trầm trọng hơn. Sự cô lập này thường đi kèm lưỡng lự, mâu thuẫn trong tư tưởng, và không có động lực làm gì cả. Họ có thể ngồi cả ngày trên ghế, chẳng buồn nhúc nhích lấy một ly, hay không thèm chải đầu hay tắm rửa mấy tuần liền.

Một dạng triệu chứng âm tính  khác đó là nhiễu loạn ngôn ngữ. Một kiểu của triệu chứng này được gọi là “nghèo nàn ngôn ngữ” (Poverty of speech), người bệnh giảm thiểu số luợng ngôn ngữ quá nhiều. Họ dường như chẳng có gì để nói cả. Một kiểu khác là “suy nghĩ bị chặn”, chuỗi suy nghĩ của bệnh nhân bị ngăn lại truớc khi một suy nghĩ hay ý tưởng kịp hình thành. Các triệu chứng này tiến triển âm thầm, nó đánh mất dần cảm xúc, ngôn ngữ hay động lực của người bệnh. Phát hiện càng sớm các triệu chứng này thì khả năng điều trị và phục hồi sẽ cao hơn rất nhiều.

     3. Rối loạn tổ chức:

Một số triệu chứng của bệnh tâm thần phân liệt khó có thể phân loại vào tích cực hay tiêu cực. Vì thế mà nhiễu loạn suy nghĩ và hành vi kỳ quặc thể hiện khía cạnh thứ ba của bệnh này, và được gọi bằng cái tên rối loạn vô tổ chức (Disorganization).

Một triệu chứng quan trọng trong tập hợp các triệu chứng của tâm thần phân liệt là ngôn ngữ vô tổ chức (Disorganized speech). Nó liên quan đến xu hướng những gì bệnh nhân nói không có lý hoặc không có nghĩa gì cả. Dấu hiệu của ngôn ngữ vô tổ chức chính là trả lời những câu không liên quan gì đến câu hỏi, ý tưởng rời rạc không kết nối và dùng từ ngữ theo kiểu khác thường. Triệu chứng này cũng được gọi là “rối loạn suy nghĩ”. Những đặc điểm thường gặp ở ngôn ngữ vô tổ chức chính là chuyển đổi chủ đề trò chuyện quá đột ngột, trả lời chẳng ăn nhập gì với câu hỏi, hoặc lặp đi lặp lại một từ hoặc một cụm từ liên tục.

Chuyển động cơ thể bất thường

Người mắc bệnh tâm thần phân liệt còn bị cứng chi hay cứng cơ dẫn đến di chuyển không được bình thường. Trong những trường hợp nặng nhất, người bệnh có thể giữ nguyên tư thế bất thường, cứng ngắc khi đứng hoặc khi ngồi trong khoảng thời gian dài. Ví dụ, một số bệnh nhân sẽ nằm thẳng lưng nhưng gồng người lại, đầu nâng lên một chút như thể họ đang gối đầu vậy. Người bệnh mắc chứng này thường không chịu đổi tư thế khác dù cho giữ nguyên tư thế này sẽ khiến họ cực kỳ khó chịu và đau đớn.

Để được chẩn đoán mắc chứng tâm thần phân liệt, người bệnh phải có ít nhất hai trong những triệu chứng bên trên, và phát tác ít nhất một tháng. Đồng thời, cuộc sống, công việc và các mối quan hệ cá nhân của người đó phải bị ảnh hưởng nặng nề so với trước khi phát bệnh. Tuy nhiên, nếu các bạn đã đọc qua các bài viết về bệnh tâm lý trước của tôi, ắt hẳn các bạn sẽ nhận ra một số triệu chứng tiêu cực của tâm thần phân liệt giống với bệnh trầm cảm lâm sàng. Vì thế, triệu chứng  phải phác tác trong khoảng vắng của bệnh trầm cảm và hưng cảm thì mới được coi là mắc tâm thần phân liệt.

Vẻ mặt thường gặp của người bệnh Tâm thần phân liệt

Để hiểu hơn về triệu chứng bệnh, chúng ta hãy cùng nghiên cứu một case bệnh dưới đây:

E., 40 tuổi, được mẹ anh đưa vào bệnh viện lần thứ 12 vì bà dần cảm thấy sợ anh. E. mặc một chiếc sơ mi cũ rách nát, mang đôi dép lê thê, đội chiếc mũ cũng rách nát không kém và đeo vài xâu chuỗi quanh cổ cái mà anh gọi là huy chương danh dự. Anh thường xuyên bộc phát những cơ quậy phá hay cơn giận vô cớ với mẹ mình. (A. E. cho rằng bà ta cho anh ăn phân từ ruột già của người khác) thỉnh thoảng anh E. thu rút cười khúc khích, xun xoe dụ dỗ người khám. Ngôn ngữ và thái độ của anh ta như một đứa trẻ con, bước đi õng ẹo, đánh eo quá mức, hưng cảm quá mức với các đáp ứng bên ngoài. Bà mẹ cung cấp anh không chịu uống thuốc chừng 1 tháng trước. Từ đó, anh bảo mình lúc nào cũng nghe có một giọng nói trong đầu, cách ăn mặc và cư xử càng lúc càng kỳ quái. Khi được hỏi anh đang làm gì, E. trả lời, “Tôi đang ăn dây diện và chuẩn bị đốt lửa.”

Trong trường hợp của E., bạn có thể nhận thấy rõ ràng sự mất khả năng vận hành tổ hợp nhận thức và cảm xúc. E. không thể suy luận, nhận biết về những gì mình đang làm, không thể giao tiếp trôi chảy, ngôn ngữ bất bình thường, không thể điều khiển hành vi của mình theo chuẩn mực xã hội cho phép. Và vì thế nên E. được chuẩn đoán là mắc chứng Tâm thần phân liệt. Anh phải uống thuốc hàng ngày, nhưng sự gián đoạn trong việc dùng thuốc khiến cho bệnh tình quay lại và nghiêm trọng hơn, dẫn đến chuyện anh nghe được tiếng nói hay hành xử càng khác lạ.

Bà G., một nhân viên về hưu 62 tuổi đi khám Bác sĩ, đã nói, “mấy con giun đó vẫn còn trong người tôi.” 4 năm về trước, trong một lần tắm, bà chú ý đến những thứ mà bà cho là “mấy con giun nhỏ đang loi nhoi ở trên da mình” . Không lâu sau đó, bà trải nghiệm cái cảm giác “mấy con giun đó đang chui qua da tôi” . Nhiều lần đi khám Bác sĩ và mang theo cả mẫu nước mà bà cho rằng có giun, nhưng không nhân viên nào có thể tìm ra được bất kỳ ký sinh trùng nào. Dù cho Bác sĩ không ngừng bảo rằng cái đó chỉ là mấy mảnh da khô của bà thôi nhưng bà vẫn không tin. Bà cảm thấy rằng bạn bè và đồng nghiệp đang dần lánh xa mình vì mấy con giun đó. Sau đó khoảng 9 tháng, lúc đi nhà thờ, bà thấy chuỗi tràng hạt tự dưng xoay theo chiều kim đồng hồ và bà thấy được mình có lực từ hút những thứ xung quanh. Bà G. cho rằng bởi vì những con giun xâm nhập vào tủy sống và không ngừng di chuyển lên xuống đã tạo ra lực từ như thế.

Trường hợp của bà G. lẫn E. đều là ví dụ điển hình của các triệu chứng Tâm thần phân liệt điển hình. Không khó để xác định bà G. bị ảo giác và ảo tưởng thông qua miêu tả bên trên.

     4. Nguyên nhân:

Có nhiều nguyên nhân gây ra chứng Tâm thần phân liệt - tất cả điều không rõ ràng, người mẹ đang mang thai bị virus xâm nhập thì đứa con sinh ra có nguy cơ bị mắc chứng bệnh này cao, di truyền, hay bị những chấn thương tâm lý, hoặc cả cấu trúc não bất thường. Chứng bệnh này không chỉ gói gọn trong một bộ phận não nhất định mà nó lên quan đến nhiều bộ phận khác nhau. Hầu hết các nghiên cứu MRI báo cáo rằng tổng số lượng tế bào não của người mắc tâm thần phân liệt ít hơn hẳn so với người thường (trong hình, phần màu đen đen là phần rỗng, có thể thấy rõ ràng người bệnh tâm thần phân liệt (bên trái) có phần rỗng nhiều hơn người bình thường (bên phải). Các nghiên cứu về hoạt động não (fMRI) cũng cho thấy hoạt động não của người bệnh tâm thần phân liệt ít hơn hẳn người bình thường.  Một số báo cáo còn chỉ ra kích thước một số Bộ phận não như hồi hải mã, hạch hạnh nhân bị giảm. Những Bộ phận này có vai trò quan trọng trong việc điều khiển cảm xúc, suy nghĩ và nhận thức. Sự giảm thiểu kích thước này thấy rõ nhất ở não trái – chịu trách nhiệm điều khiển ngôn ngữ.

Sự khác nhau trong ảnh chụp cắt lớp vi tính ở não người bình thường và bệnh nhân Tâm thần phân liệt

Chất dẫn truyền thần kinh (Neurotransmitter) Dopamine ảnh hưởng đến ngôn ngữ, hành vi, học tập, và cảm xúc. Là chất khiến bạn cảm thấy hưng phấn và vui vẻ.  Thuyết Dopamine, thuyết có ảnh hưởng nhất về trong số các thuyết về chất dẫn truyền thần kinh và tâm thần phân liệt cho rằng các triệu chứng tích cực của bệnh là sản phẩm từ lượng Dopamine và cơ quan thụ cảm, hay cửa tiếp nhận Dopamine quá nhiều (mỗi chất dẫn truyền thần kinh có một cửa riêng biệt), dẫn đến người bệnh bị ảo giác. Tất cả những loại thuốc chữa trị tâm thần phân liệt ngày nay có cơ chế hoạt động chủ yếu là chặn cơ quan thụ cảm D2, ngăn cản cơ quan này tiếp nhận chất Dopamine.

Ngoài ra, những chất dẫn truyền thần kinh khác như Serotonin (chịu trách nhiệm cho cảm xúc), và Glutamate (cảm giác phấn khích) đều nằm trong vòng nghiên cứu. Nhiều nhà khoa học tin rằng, chúng đều có vai trò quan trọng cấu thành nguyên nhân gây bệnh tâm thần phân liệt. Nhất là với Glutamate(có nhiều trong bột ngọt), đã có bằng chứng chứng minh sự suy giảm chất này (cơ quan thụ cảm bị chặn, không thể tiếp nhận) có thể gây ra một số triệu chứng tâm thần phân liệt.

Bên cạnh đó, những sự kiện gây áp lực từ bên ngoài có thể tác động lên sinh lý và tâm lý, khiến bệnh bộc phát nhanh hơn với những người đã có sẵn gene bệnh vì gene và môi trường luôn tác động lẫn nhau.

II. ĐIỀU TRỊ BỆNH TÂM THẦN PHÂN LIỆT

Bởi vì các nguyên nhân gây ra tâm thần phân liệt nặng về phần di truyền và sinh lý nên việc chữa trị chủ yếu dựa vào thuốc. Tâm thần phân liệt không thể được chữa khỏi hoàn toàn, người bệnh bắt buộc phải dùng thuốc đúng liều và đều đặn, nếu không bệnh có thể sẽ tái phát nặng hơn, sẽ tổn hại đến não bộ nhiều hơn, như trường hợp của Emilio bên trên. Tuy nhiên có một điều đáng tiếc là khoa học thần kinh vẫn còn khá nhiều hạn chế, mà thuốc chữa trị các bệnh tâm thần, tâm lý có ảnh hưởng chủ yếu lên hệ nội tiết và chất dẫn truyền thần kinh. Mà hệ nội tiếng và chất dẫn truyền thần kinh có mối quan hệ khá phức tạp chồng chéo lên nhau. Việc sử dụng thuốc lâu dài có thể gây ra một số tác dụng phụ khó lường. Đối với bệnh tâm thần phân liệt thì tác dụng phụ của việc dùng thuốc chính là cứng cơ miệng và cơ mặt. Ví dụ như lưỡi thè ra ngoài, môi nhăn lại, tứ chi và chân tay co thắt. Ngoài ra còn có thể ảnh hưởng lên hệ thần kinh khiến cơ thể run rẩy, cứng cơ, kích động, hoặc có những dáng điệu kỳ dị mà người bệnh không thể khống chế được. May mắn là những tác dụng phụ này nằm ở những loại thuốc đời đầu (như Chlopromazin và Haloperidol)

Những loại thuốc đời hai như Risperidol , Olanzapin, Sulpiride và Trihexyphenidyl...thì có ít tác dụng phụ hơn nhưng vẫn giữ được hiệu quả như thuốc đời đầu và có tác dụng trong việc ngăn ngừa bệnh tái phát. Một nghiên cứu  cho thấy chỉ có 13%  những người bệnh dùng thuốc đời hai là bị tác dụng phụ cứng cơ và co thắt, trong khi tỷ lệ đó là 32% đối với những người dùng thuốc đời đầu. Tuy nhiên, một điều đáng tiếc là những loại thuốc đời hai này không có hiệu quả mấy trong việc chữa trị những triệu chứng âm tính. Đã vậy, tác dụng phụ của nó còn khá nguy hiểm. Nó có thể khiến cho bệnh nhân tăng cân và béo phì, tăng nguy cơ mắc các bệnh khác như huyết áp cao, tiểu đường, và các bệnh về tim mạch. Những tác dụng phụ này có thể khiến cho bệnh nhân ngưng thuốc và dẫn đến tình trạng bệnh tái phát nặng hơn.

Điều trị, tư vấn tâm lý cũng giúp cải thiện đời sống của bệnh nhân mắc tâm thần phân liệt. Các chuyên viên tư vấn giúp đỡ bệnh nhân cải thiện những vấn đề cuộc sống mà họ gặp phải khi mắc bệnh. Đồng thời huấn luyện những kỹ năng sống cần thiết để quản lý bệnh hiệu quả. Phương pháp nhận thức hành vi được sử dụng nhiều trong những năm gần đây, giúp bệnh nhân phán đoán, kiểm tra và chỉnh sửa lại những suy nghĩ méo mó của họ về bản thân mình và môi trường xung quanh. Người bệnh tâm thần phân liệt hoàn toàn có thể hoà nhập, học tập và làm việc tại cộng đồng một cách bình thường, nếu có một chế độ y tế hợp lý, quản lý tại địa phương và sự quan tâm của xã hội.

III. LÀM GÌ KHI CÓ NGƯỜI THÂN BỊ BỆNH TÂM THẦN PHÂN LIỆT?

Tâm thần phân liệt gây ra ảnh hưởng nặng nề đến bệnh nhân và người thân xung quanh. Gia đình bệnh phân phải hiểu rằng con họ đang mắc một chứng bệnh có thể thay đổi cuộc đời của họ mãi mãi. Và biện pháp duy nhất để tình trạng bệnh cải thiện là đưa đi khám và điều trị kịp thời chứ không phải mời thầy cúng, cô đồng về để chữa. Đây không phải là bệnh chỉ cần quất vài roi, uống vài ba thứ bùa, cúng kiến nhang đèn là sẽ hết. Gia đình cần phải kiên nhẫn và ủng hộ người bệnh rất nhiều. Nên nhớ, bệnh tâm lý không phải gãy tay gãy chân, dùng mắt thường là có thể thấy nó khỏi được.

Việc chữa trị chủ yếu là điều trị triệu chứng và phục hồi chức năng tâm lý xã hội. Do trong thực tế có sự kết hợp giữa những yếu tố về sinh học và môi trường đối với cơ chế sinh bệnh nên việc điều trị phải phối hợp nhiều liệu pháp khác nhau tùy theo giai đoạn phát triển của bệnh. Có thể sử dụng liệu pháp tâm lý và dùng các thuốc chống loạn thần.

Về liệu pháp tâm lý: cơ sở khám chữa bệnh chuyên khoa phải thực hiện việc truyền thông giáo dục sức khỏe để làm cho gia đình người bệnh có được sự hiểu biết cần thiết, nhận thức được bệnh lý tâm thần phân liệt; cần cảm thông, chấp nhận, quan tâm trong việc đối xử và chăm sóc bệnh nhân tâm thần phân liệt là người thân của mình...

Dùng thuốc chống loạn thần: trong trường hợp người bệnh lên cơn tâm thần phân liệt cấp tính, phải cho bệnh nhân uống thuốc chống loạn thần và cố gắng nhanh chóng đưa người bệnh ra khỏi tình trạng loạn thần nặng như kích động, hoang tưởng, ảo giác... Các thuốc chống loạn thần đối với bệnh nhân là rất cần thiết, có tác dụng hiệu quả và thường được dùng để xử trí những trạng thái loạn thần cấp tính, chống tái phát, chống mạn tính hóa. Các loại thuốc được sử dụng đều là thuốc có tác dụng mạnh, phải được chỉ định dùng một cách hết sức thận trọng, cần theo dõi chặt chẽ việc cho uống thuốc; đồng thời vấn đề chọn thuốc, quy định liều lượng dùng phải chính xác, phù hợp với loại bệnh, thể bệnh và từng trường hợp bệnh nhân. Thuốc khởi đầu phải dùng liều thấp để thăm dò khả năng dung nạp của người bệnh, rồi sau đó tăng dần liều lượng cho đến mức có tác dụng điều trị hiệu quả; duy trì liều ổn định và giảm dần trước khi ngừng sử dụng thuốc theo chỉ định, hướng dẫn của bác sĩ chuyên khoa. Huấn luyện những kỹ năng sống cần thiết để quản lý bệnh hiệu quả. Phương pháp nhận thức hành vi được sử dụng nhiều trong những năm gần đây, giúp bệnh nhân phán đoán, kiểm tra và chỉnh sửa lại những suy nghĩ méo mó của họ về bản thân mình và môi trường xung quanh. Người bệnh tâm thần phân liệt hoàn toàn có thể hoà nhập, học tập và làm việc tại cộng đồng một cách bình thường, nếu có một chế độ y tế hợp lý, quản lý tại địa phương và sự quan tâm của xã hội.

Nguồn: Tổng hợp

Thanh Toàn